Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 96/2023/NĐ-CP (Nghị định 96) quy định chi tiết một số điều của Luật Khám bệnh, chữa bệnh (KCB), trong đó quy định thời gian thực hành để cấp giấy phép hành nghề KCB.
Theo đó, tại Điều 3 Nghị định 96 đã rút ngắn thời gian thực hành của bác sĩ, điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật y, dinh dưỡng lâm sàng, cấp cứu ngoại viện,… cụ thể như sau:
- Thời gian thực hành KCB đối với chức danh bác sỹ là 12 tháng (trước đây là 18 tháng); trong đó, thời gian thực hành chuyên môn KCB là 9 tháng, thời gian thực hành chuyên môn KCB về hồi sức cấp cứu là 3 tháng.
- Thời gian thực hành KCB đối với chức danh y sỹ là 9 tháng (trước đây là 12 tháng), trong đó, thời gian thực hành chuyên môn KCB là 6 tháng, thời gian thực hành chuyên môn KCB về hồi sức cấp cứu là 3 tháng.
- Thời gian thực hành KCB đối với chức danh điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật y là 6 tháng (trước đây là 9 tháng), trong đó, thời gian thực hành chuyên môn KCB là 5 tháng; thời gian thực hành chuyên môn KCB về hồi sức cấp cứu là 1 tháng.
- Thời gian thực hành KCB đối với chức danh dinh dưỡng lâm sàng là 6 tháng.
- Thời gian thực hành KCB đối với chức danh cấp cứu viên ngoại viện là 6 tháng, trong đó, thời gian thực hành chuyên môn KCB về cấp cứu ngoại viện là 3 tháng; thời gian thực hành chuyên môn KCB về hồi sức cấp cứu là 3 tháng.
- Thời gian thực hành KCB đối với chức danh tâm lý lâm sàng là 9 tháng.
Ngoài ra, Nghị định 96 còn quy định trong quá trình thực hành phải lồng ghép nội dung hướng dẫn về các quy định pháp luật về KCB, quy chế chuyên môn, đạo đức hành nghề, an toàn người bệnh, kỹ năng giao tiếp và ứng xử của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh.
Bệnh nhi điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai.
Bảo lưu kết quả thực hành KCB đối với các chức danh chuyên môn
Tại Điều 4, Nghị định 96 quy định, cơ sở hướng dẫn thực hành có trách nhiệm bảo đảm người thực hành được làm việc theo chế độ làm việc của cơ sở. Trong quá trình thực hành vì lý do sức khỏe hoặc trường hợp bất khả kháng, người thực hành được tạm dừng thực hành trong thời gian tối đa 12 tháng và được bảo lưu các kết quả thực hành trước đó.
Việc bảo lưu kết quả thực hành thực hiện như sau:
Người thực hành có văn bản đề nghị bảo lưu kết quả thực hành và gửi kèm theo các tài liệu chứng minh lý do đề nghị bảo lưu; căn cứ đề nghị của người thực hành, người đứng đầu cơ sở KCB xem xét, quyết định việc bảo lưu, trường hợp không đồng ý bảo lưu người đứng đầu cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải có văn bản trả lời, nêu rõ lý do; trong thời gian 30 ngày sau khi hết thời gian bảo lưu, nếu người thực hành không có văn bản đề nghị tiếp tục thực hành hoặc đề nghị gia hạn thời gian bảo lưu thì kết quả bảo lưu không còn giá trị, tổng thời gian của các lần bảo lưu không quá 12 tháng.
Bích Ngọc