Theo hướng dẫn mới nhất ngày 1-12 của Bộ Y tế, có 12 dấu hiệu, biểu hiện mắc COVID-19 bao gồm: ho; sốt (trên 37,5 độ c); đau đầu; đau họng, rát họng; sổ mũi, chảy mũi, ngạt mũi; khó thở; đau ngực, tức ngực; đau mỏi người, đau cơ; mất vị giác; mất khứu giác; đau bụng, buồn nôn; tiêu chảy.
Ngày 1/12, Bộ Y tế ban hành Quyết định số 5525/QĐ-BYT kèm hướng dẫn phân loại nguy cơ người nhiễm SARS-CoV-2 và định hướng xử trí, cách ly, điều trị. Quyết định này thay thế cho Quyết định số 3646 ban hành ngày 31/7.

Nhân viên y tế chuẩn bị thuốc cho F0 cách ly tại nhà trên địa bàn TP.Biên Hòa.
Theo đó, việc phân loại theo 4 nhóm nguy cơ ( theo bảng màu đỏ - cam - vàng và xanh) và định hướng xử trí, cách ly, điều trị, cụ thể:
Nguy cơ thấp (màu xanh): Tuổi từ 3 tháng trở lên đến dưới 49 tuổi và chưa phát hiện bệnh lý nền, đã tiêm đủ liều vaccine sức khoẻ chưa có dấu hiệu bất thường và SpO2 từ 97% trở lên.
Đối với nhóm này được chăm sóc tại nhà riêng (đủ điều kiện theo quy định). Trạm y tế, nhân viên y tế, tình nguyện viên… theo dõi, quản lý người nhiễm, phát hiện sớm dấu hiệu chuyển tầng cao hơn. Cùng với đó, hỗ trợ tâm lý, dinh dưỡng, vận động, theo dõi sức khoẻ liên tục, đánh giá nguy cơ. Đồng thời, cung cấp gói chăm sóc tại nhà (Thuốc kháng vius, vitamin, nhu yếu phẩm…).
Nguy cơ trung bình (màu vàng): Từ 50-64 tuổi, chưa phát hiện bệnh lý nền và đã tiêm đủ liều vaccine; tuổi từ 3 tháng đến dưới 49 tuổi và chưa tiêm đủ liều vaccine; có dấu hiệu như: Sốt, ho, đau họng, khó thở nhẹ… và SpO2 từ 97% trở lên.
Nhóm này điều trị tại bệnh viện, cơ sở thu dung điều trị COVID-19 (tầng 1). Nếu cơ sở điều trị tầng 1 của địa phương quá tải thì có thể xem xét điều trị tại cộng đồng.
Theo hướng dẫn, với nhóm nguy cơ trung bình cần theo dõi sát sao, phát hiện sớm dấu hiệu thay đổi cần nhập viện ngay hoặc chuyển tầng cao hơn. Việc điều trị bằng thuốc kháng virus; điều trị triệu chứng như: Hạ sốt, giảm đau, giảm ho cùng với nâng cao thể trạng, dinh dưỡng, vật lý trị liệu, hỗ trợ tâm lý…
Nguy cơ cao (màu cam): Tuổi từ 65 trở lên và đã tiêm đủ liều vaccine; mắc bệnh lý nền và đã tiêm đủ liều vaccine; từ 50-64 tuổi, chưa phát hiện bệnh lý nền và chưa tiêm đủ liều vaccine; phụ nữ có thai, vừa sinh con dưới 42 ngày; trẻ em từ dưới 3 tháng tuổi; SpO2 từ 94%-96%.
Với nhóm này điều trị tại Bệnh viện thu dung điều trị COVID-19 (tầng 2). Theo dõi phát hiện sớm dấu hiệu chuyển tầng cao hơn; điều trị thuốc kháng virus, dinh dưỡng, điều trị dự phòng thuốc chống đông, bảo đảm sẵn sàng hỗ trợ ôxy và dùng thuốc chống viêm khi suy hô hấp; theo dõi điều trị kết hợp bệnh lý nền.
Nguy cơ rất cao (màu đỏ): Tuổi từ 65 trở lên và chưa tiêm đủ liều vaccine; mắc bệnh lý nền và chưa tiêm đủ liều vaccine; có tình trạng cấp cứu; SpO2 dưới 94%.
Nhóm này điều trị tại Bệnh viện thu dung điều trị COVID-19 (tầng 2,3); Trung tâm Hồi sức tích cực COVID-19 (căn cứ theo chỉ định của bác sĩ và số giường bệnh).
Với nhóm nguy cơ rất cao, việc điều trị tập trung hỗ trợ thở: Thở oxy, thở HFNC, thở máy, ECMO (thiết bị tim, phổi nhân tạo), hỗ trợ các cơ quan suy chức năng (chạy thận, lọc máu, trợ tim, vận mạch…). Đồng thời, điều trị chống viêm, chống đông, kháng sinh, vật lý trị liệu, phục hồi chức năng, phòng ngừa biến chứng… Theo dõi điều trị kết hợp bệnh lý nền, chuyển tầng điều trị thấp hơn nều đáp ứng điều trị.

Bộ Y tế cũng nêu lên 7 nguyên tắc điều trị F0, gồm:
1. Theo dõi, chăm sóc các trường hợp nhiễm SARS-CoV-2 không triệu chứng và các ca bệnh nhẹ ngay tại nhà nếu đủ điều kiện. Tập trung điều trị tốt ngay tại tầng 1, tầng 2 cho người bệnh, tăng cường năng lực cấp cứu, hồi sức tích cực các ca bệnh nặng ở tầng trên.
2. Mỗi cơ sở thu dung bố trí ít nhất “2 tầng điều trị” và đảm bảo tỷ lệ giường bệnh hồi sức tích cực theo phân tầng điều trị.
3. Đánh giá nguy cơ và theo dõi tình trạng bệnh chặt chẽ, chủ động tiên lượng các tình huống tăng nặng để điều trị phù hợp, can thiệp sớm.
4. Cập nhật, tuân thủ, thực hiện các hướng dẫn, phác đồ điều trị, giảm thiểu tối đa tình trạng người bệnh tiến triển nặng và tử vong tại các cơ sở điều trị.
5. Chế độ dinh dưỡng, nước uống, hỗ trợ chăm sóc sức khỏe tinh thần có vai trò rất quan trọng, cần quan tâm như thuốc và can thiệp y khoa để điều trị hiệu quả, giảm tử vong.
6. Tăng cường kết nối, hội chẩn, tư vấn điều trị từ xa, tầng trên chỉ đạo tuyến cho tầng dưới để điều trị hiệu quả ngay tại tầng dưới.
7. Cộng đồng, y tế tuyến cơ sở và các bệnh viện thu dung, điều trị COVID-19 thực hiện nghiêm việc phân loại nguy cơ; tuy nhiên căn cứ trên tình trạng lâm sàng của người bệnh và tính sẵn có của giường bệnh, cơ sở y tế (bác sỹ điều trị) có quyền quyết định chuyển người bệnh vào loại giường bệnh phù hợp với thực tế.
Ngoài ra, 20 bệnh nền có nguy cơ cao gồm: Đái tháo đường; Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính và các bệnh phổi khác; Ung thư (đặc biệt là các khối u ác tính về huyết học, ung thư phổi và bệnh, ung thư di căn khác); Bệnh thận mạn tính; Ghép tạng hoặc cấy ghép tế bào gốc tạo máu; Béo phì, thừa cân; Bệnh tim mạch (suy tim, bệnh động mạch vành hoặc bệnh cơ tim); Bệnh lý mạch máu não; Hội chứng Down; HIV/AIDS; Bệnh lý thần kinh, bao gồm sa sút trí tuệ; Bệnh hồng cầu hình liềm; Bệnh hen suyễn; Tăng huyết áp; Thiếu hụt miễn dịch; Bệnh gan; Rối loạn sử dụng chất gây nghiện; Sử dụng corticosteroid hoặc các thuốc ức chế miễn dịch khác; Các loại bệnh hệ thống; Các bệnh nền của trẻ em theo hướng dẫn điều trị của Bộ Y tế.
Tình trạng cấp cứu bao gồm: Rối loạn ý thức; Khó thở, thở nhanh > 25 lần/phút hoặc SpO2 < 94%; Nhịp tim nhanh > 120 nhịp/phút; Huyết áp tụt, huyết áp tối đa < 90 mmHg, huyết áp tối thiểu < 60 mmHg; Bất kỳ dấu hiệu bất thường khác mà nhân viên y tế chỉ định xử trí cấp cứu.
Trước đó, ngày 31/7, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 3646 về tiêu chí phân loại nguy cơ người nhiễm SARS-CoV-2 trong bối cảnh các ca COVID-19 đang tăng nhanh tại TP HCM và các tỉnh phía Nam. Tuy nhiên, hiện nay việc áp dụng phân loại nguy cơ và xử trí, cách ly, chuyển viện điều trị thiếu nhất quán giữa các địa phương đang làm ảnh hưởng đến hiệu quả triển khai các chủ trương, chính sách phòng chống dịch. Vì vậy, việc chỉnh sửa tiêu chí phân loại nguy cơ và định hướng xử trí, cách ly, điều trị phù hợp với tình hình mới để thống nhất áp dụng tại tất cả các tỉnh, thành phố trên toàn quốc.
T.B