[Loạt bài: Ứng dụng kỹ thuật tiên tiến trong điều trị và cứu sống bệnh nhân]
Kỹ thuật mổ nội soi đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong lĩnh vực phẫu thuật hiện đại. Không chỉ giúp giảm đau, ít mất máu và hạn chế nguy cơ nhiễm trùng so với mổ hở truyền thống, phương pháp này còn rút ngắn thời gian hồi phục, giảm chi phí nằm viện và nâng cao chất lượng điều trị cho người bệnh. Với sự hỗ trợ của công nghệ tiên tiến và tay nghề ngày càng cao của bác sĩ, mổ nội soi đã trở thành lựa chọn ưu tiên trong điều trị nhiều bệnh lý, từ đơn giản đến phức tạp.
Mới đầu phẫu thuật nội soi chỉ áp dụng điều trị bệnh tiêu hóa, đến nay kỹ thuật này được mở rộng điều trị và làm chủ ở nhiều bệnh lý phức tạp như: Sỏi thận, sỏi đường mật, tim, u xơ tử cung, chấn thương chỉnh hình…
Lấy sạch sỏi cho bệnh nhân
BS.CKI Lê Ngọc Thanh Vinh - Khoa Ngoại tổng quát, Bệnh viện ĐK Đồng Nai cho hay, với tính ưu việt của kỹ thuật mổ nội soi mở ống mật chủ lấy sỏi và nội soi đường mật, các bác sĩ của bệnh viện đã phẫu thuật điều trị thành công cho rất nhiều bệnh nhân có sỏi đường mật.
Đơn cử trường hợp bệnh nhân Khương Thị N., (57 tuổi, quê ở tỉnh Thanh Hóa, tạm trú ở TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) vào viện trong tình trạng đau bụng, vàng da và sốt. Qua thăm khám và chụp CT-Scan bụng phát hiện bệnh nhân bị viêm túi mật, sỏi ống mật chủ, sỏi gan chung tái phát/PTGBD (dẫn lưu túi mật xuyên gan qua da). Trước đó, bệnh nhân có bệnh nền tăng huyết áp, hở van 3 lá và đã từng mổ hở mật chủ lấy sỏi năm 2022 tại một bệnh viện khác.

Các bác sĩ Bệnh viện ĐK Đồng Nai thực hiện mổ nội soi lấy sỏi đường mật cho bệnh nhân Khương Thị N.
Các bác sĩ đã quyết định phẫu thuật nội soi mở ống mật chủ lấy sỏi trong đường mật và sỏi ống gan chung, đặt ống dẫn lưu Kehr và cắt túi mật cho bệnh nhân. Sau gần 2 giờ đồng hồ, các bác sĩ đã lấy 5 viên sỏi khoảng 2cm ra khỏi cơ thể cho bệnh nhân.
Bệnh nhân N. cho hay, so với mổ hở trước đây, mổ nội soi lần này bà rất hài lòng. Do đường mổ nhỏ dẫn đến ít đau và 1 tuần là bà được ra viện, còn trước đây mổ hở phải mất hơn 1 tuần bà mới được xuất viện về nhà.
Theo bác sĩ Vinh, trước đây khi chưa áp dụng kỹ thuật này, bệnh nhân phải mổ hở để lấy sỏi. Phương pháp mổ hở đường mổ dài từ 15-20cm, dễ bị sót sỏi và thời gian nằm viện lâu. Kể từ khi triển khai kỹ thuật phẫu thuật nội soi mở ống mật chủ lấy sỏi và nội soi đường mật đã mang lại nhiều niềm vui cho người bệnh. Các bác sĩ chỉ cần mổ 4 lỗ nhỏ từ 5mm-1cm mở ống mật chủ để lấy sỏi, sau khi lấy sỏi xong sử dụng một ống soi mềm, soi bên trong đường mật lấy sỏi ở đoạn cuối mật chủ và trên gan.
Để giúp cho các bác sĩ dễ dàng quan sát và dễ dàng thực hiện lấy sạch sỏi, các bác sĩ sử dụng 2 màn hình camera, một camera sử dụng máy mổ nội soi và camera máy sử dụng cho ống soi mềm để soi đường mật. “Kỹ thuật mổ nội soi mang lại rất nhiều ưu điểm hơn mổ hở, đó là tỷ lệ lấy sạch sỏi cao, đường mổ nhỏ, ít đau và thời gian nằm viện cũng được rút ngắn hơn” – bác sĩ Vinh nói.
Bác sĩ Vinh cho biết thêm, để triển khai được kỹ thuật này, lãnh đạo khoa và Ban giám đốc bệnh viện đã tạo điều kiện và cử đội ngũ bác sĩ lên Bệnh viện Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh học tập. Sau 2 tháng đào tạo, các bác sĩ khoa Ngoại tổng quát đã tự triển khai kỹ thuật này.
Để nâng cao tay nghề chuyên môn cũng như mang lại nhiều dịch vụ kỹ thuật chuyên sâu về bệnh lý sỏi đường mật cho người bệnh. Thời gian tới khoa sẽ phát triển thêm kỹ thuật nội soi tán sỏi gan qua đường hầm da, nội soi cắt gan trái trong điều trị lấy sỏi, nội sỏi lấy sỏi túi mật đối với bệnh nhân không thể mổ cắt túi mật.
Tại Bệnh viện Hoàn Mỹ Đồng Nai, các bác sĩ đã kết hợp thành công kỹ thuật nội soi tán sỏi bằng ống soi mềm và phẫu thuật nội soi mở ống mật trong một lần mổ để điều trị sỏi đường mật cho cụ ông N.V.N., (85 tuổi, ngụ TP. Biên Hòa).
Cụ N. nhập viện vì đau hạ sườn phải, da vàng, cụ N. có tiền sử mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính đang điều trị. Qua thăm khám, chụp CT-scan bụng, bác sĩ phát hiện cụ N. có nhiều sỏi ở đoạn cuối ống mật chủ, nhiều sỏi ở ống gan chung và nhánh trái của gan. Sỏi nhiều khiến đường mật trong và ngoài gan giãn, có ít sỏi bùn ở túi mật.
Sau đó các bác sĩ đã quyết định phẫu thuật nội soi mở ống mật chủ lấy sỏi ở ống mật chủ và đoạn gan chung, sỏi trong gan cho bệnh nhân. Quá trình bơm rửa đã lấy được nhiều sỏi nhỏ.
ThS.BS Hoàng Thanh Ngân - Khoa Ngoại tổng quát, Bệnh viện Hoàn Mỹ Đồng Nai cho biết, qua kiểm tra đường mật trong gan để đảm bảo không còn sỏi sót lại, các bác sĩ tiếp tục phát hiện một viên sỏi khoảng 1,5cm bị kẹt ở đoạn cuối ống mật chủ. Các bác sĩ đã sử dụng máy tán sỏi Laser để tán vụn viên sỏi và lấy hết sỏi ra khỏi cơ thể bệnh nhân.
Để phòng ngừa và phát hiện sớm bệnh lý sỏi đường mật, các bác sĩ khuyến cáo, người dân ăn uống đảm bảo an toàn thực phẩm, rửa rau sạch kĩ trước ăn sống, xổ giun định kỳ 6 tháng/lần, tái khám 1 năm/lần khi đã điều trị sỏi đường mật. Bên cạnh đó, cần chủ động thăm khám sức khỏe định kỳ từ 6 tháng đến 1 năm/lần. Khi có các biểu hiện của bệnh, cần đến cơ sở y tế để thăm khám và điều trị kịp thời.
Nhiều lựa chọn cho bệnh nhân có bệnh lý tử cung
Thời gian qua, Khoa Phụ sản của Bệnh viện Đồng Nai-2 đã phẫu thuật thành công cho nhiều trường hợp bị đa nhân xơ tử cung, u xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung, polyp tử cung, một số bệnh lý gây chảy máu tử cung kéo dài mà không đáp ứng điều trị bảo tồn bằng kỹ thuật nội soi cắt tử cung.
Có thể kể đến trường hợp bệnh nhân Trịnh Hồng L. (48 tuổi, ngụ phường Trảng Dài, TP. Biên Hoà), bệnh nhân L. vào viện trong tình trạng đau vùng bụng dưới kéo dài, rong kinh không rõ nguyên nhân. Qua thăm khám và siêu âm, kết quả chẩn đoán bệnh nhân bị đa nhân xơ tử cung lớn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt hàng ngày và thiếu máu nặng. Sau khi hội chẩn và đánh giá kỹ lưỡng, các bác sĩ quyết định thực hiện kỹ thuật nội soi cắt tử cung để điều trị cho bệnh nhân này.
BS.CKI Nguyễn Thị Kim Chi - Phó trưởng khoa thường trực, Khoa Phụ sản, Bệnh viện Đồng Nai-2, người trực tiếp phẫu thuật điều trị cho bệnh nhân L. cho biết, trong quá trình phẫu thuật, ê-kíp bác sĩ sử dụng các thiết bị nội soi hiện đại, đưa ống soi vào ổ bụng qua các vết mổ nhỏ, tiến hành cắt bỏ tử cung một cách chính xác và an toàn, hạn chế tổn thương đến các tổ chức xung quanh. Quá trình phẫu thuật có sự phối hợp nhịp nhàng của khoa Phẫu thuật gây mê hồi sức để đảm bảo an toàn tối đa cho bệnh nhân. Sau mổ, bệnh nhân được chuyển về phòng hồi sức để theo dõi các dấu hiệu sinh tồn và kiểm soát đau.

Các bác sĩ Bệnh viện Đồng Nai-2 thực hiện một ca nội soi cắt tử cung cho bệnh nhân.
Bệnh nhân L. cho hay, khi nghe đến mổ là chị rất sợ đau và nằm viện lâu, tuy nhiên khi nghe các bác sĩ tư vấn về kỹ thuật này chị L. yên tâm hơn. “Sau mổ không đau như tôi nghĩ, trong vòng 24 tiếng đồng hồ tôi vận động được nhẹ nhàng và vui hơn là thời gian năm viện sẽ được rút ngắn” – chị L. vui mừng nói.
“Trường hợp bệnh nhân L. nếu không được phẫu thuật điều trị có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm như: thiếu máu do rong kinh kéo dài, đau vùng chậu mãn tính, nguy cơ biến dạng tử cung ảnh hưởng đến khả năng sinh sản (nếu còn nhu cầu). Ngoài ra, các khối u có thể chèn ép lên bàng quang, trực tràng gây rối loạn tiểu tiện hoặc đại tiện, thậm chí có nguy cơ biến chứng tắc mạch hoặc thoái hóa ác tính (hiếm gặp nhưng có thể xảy ra)” – bác sĩ Chi nói.
Theo bác sĩ Chi, kỹ thuật nội soi cắt tử cung là sử dụng ống nội soi nhỏ và các dụng cụ phẫu thuật chuyên biệt được đưa vào ổ bụng qua các vết mổ nhỏ (khoảng 0,5-1cm). Qua hình ảnh phóng đại trên màn hình, bác sĩ thực hiện cắt tử cung với độ chính xác cao, hạn chế mất máu và tổn thương mô. So với mổ hở truyền thống, mổ nội soi có rất nhiều ưu điểm như: Vết mổ nhỏ, ít đau sau mổ, thời gian hồi phục nhanh, giảm thời gian nằm viện, giảm nguy cơ nhiễm trùng và biến chứng sau mổ, ít để lại sẹo xấu, đảm bảo tính thẩm mỹ.
Để thực hiện kỹ thuật này, bệnh viện đã trang bị hệ thống máy nội soi hiện đại, các dụng cụ phẫu thuật chuyên dụng, hệ thống gây mê hồi sức đạt chuẩn. Ngoài ra, nhân lực là yếu tố then chốt, các bác sĩ phẫu thuật, gây mê, điều dưỡng đều được đào tạo bài bản. Theo đó, bệnh viện đã cử đội ngũ bác sĩ và kỹ thuật viên đi đào tạo chuyên sâu về nội soi và cập nhật kỹ thuật mới nhất tại Bệnh viện Từ Dũ TP. Hồ Chí Minh.
“Với tính ưu việt kỹ thuật này, trung bình mỗi tháng khoa Phụ sản mổ nội soi điều trị khoảng 10 ca, tất cả những bệnh nhân này đều có kết quả điều trị tốt, đặc biệt là sự hài lòng cao từ phía người bệnh” – bác sĩ Chi chia sẻ.
Trong thời gian qua, bên cạnh mổ nội soi cắt tử cung, Bệnh viện Đồng Nai- 2 còn triển khai nhiều kỹ thuật về sản phụ khoa tiên tiến khác như: siêu âm bơm nước lòng tử cung để chẩn đoán các bệnh lý buồng tử cung, nội soi điều trị lạc nội mạc tử cung, can thiệp điều trị vô sinh – hiếm muộn. Các kỹ thuật này đều góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ địa phương.
Còn tại Bệnh viện ĐK Đồng Nai, gần cuối năm 2024, các bác sĩ Khoa Sản bệnh viện đã phẫu thuật cắt tử cung bằng kỹ thuật mổ nội soi mới, vừa cắt toàn bộ tử cung vừa nạo vét hạch nội soi cho chị T. C. G. (ở xã Phú Xuân – H. Tân Phú). Với phương pháp ít xâm lấn này, chỉ sau 4 ngày phẫu thuật sức khỏe của chị G. đã ổn định.

ThS.BS Nguyễn Mạnh Hoan - Trưởng khoa Sản, Bệnh viện ĐK Đồng Nai thăm khám cho bệnh nhân G.
Chị G. cho hay, nơi chị đang sinh sống có nhiều người đã đi khám và phát hiện ra ung thư, trong đó có nhiều người ở giai đoạn cuối. Lo lắng nên chị đã lên Bệnh viện Ung bướu TP. Hồ Chí Minh tầm soát, kết quả chẩn đoán chị bị ung thư cổ tử cung. Sau khi có kết quả chị đã lựa chọn Bệnh viện ĐK Đồng Nai điều trị theo dõi.
ThS.BS Nguyễn Mạnh Hoan - Trưởng khoa Sản, Bệnh viện ĐK Đồng Nai cho hay, trước đây để phẫu thuật điều trị ung thư cổ tử cung thường là đường mổ rất dài, với trường hợp bệnh nhân G., cắt tử cung và nạo vét hạch bằng phương pháp nội soi mang lại rất nhiều lợi ích cho bệnh nhân. Do đường mổ nhỏ, bệnh nhân sẽ đỡ mất máu rất nhiều, giảm đau, các nguy cơ dính sau mổ cũng rất thấp và giúp bệnh nhân nhanh hồi phục.
“Phẫu thuật nội soi cắt tử cung được xem là phương pháp tiến bộ trong y khoa với nhiều ưu điểm, tuy nhiên, đây là một kỹ thuật khó đòi hỏi bác sĩ phải có kinh nghiệm và tay nghề cao. Bởi khi tiến hành phẫu thuật, tiếp cận vào các vùng mạch máu lớn hai bên cột chậu, nếu các bác sĩ không có kinh nghiệm và tay nghề cao nếu không may lỡ phạm vào các mạch máu thì nguy cơ có thể làm cho bệnh nhân tử vong” – ThS.BS Hoan nói.
Không riêng gì các bệnh viện tuyến tỉnh, bệnh viện tư nhân, hiện nay các Bệnh viện đa khoa khu vực, Trung tâm Y tế tuyến huyện đã triển khai được nhiều kỹ thuật mổ nội soi. Qua đó, giúp nhiều bệnh nhân được điều trị tại tuyến cơ sở mà không phải lên tuyến trên.
Sao Mai
* Bài 3: Phát triển nhiều kỹ thuật mới - Gần dân, hiệu quả rõ